Bình định thiên hạ Hán_Quang_Vũ_Đế

Đi trấn thủ Hà Bắc

Nhân lúc quân Tân thua tan tác, các thổ hào các vùng nổi dậy cát cứ. Chính quyền nhà Tân lúc đó rất suy yếu, thực tế chỉ còn Trường AnLạc Dương. Quân Lục Lâm chia làm hai đường tiến đánh hai nơi này. Tháng 7 năm 23, tướng quân Lục Lâm là Vương Khuông đánh hạ thành Lạc Dương. Tháng 10, quân Lục Lâm tiến vào Trường An, giết chết Vương Mãng, lật đổ nhà Tân.

Sau khi đánh chiếm Lạc Dương, Lưu Huyền muốn dời đô về đó, bèn phong Lưu Tú làm Đại lý Tư lệ hiệu uý đến Lạc Dương sửa sang cung điện. Tháng 10 năm 23, Canh Thuỷ Đế dời đô về Lạc Dương. Khi quân Lục Lâm của Lưu Huyền tiến vào, vì nhiều người ăn mặc lộn xộn, mặc cả đồ phụ nữ nên các chí sĩ và địa chủ tỏ vẻ coi thường; tới khi cánh quân Lưu Tú tiến vào, trang phục và đội ngũ nghiêm chỉnh hơn nên được mọi người nể phục[26].

Mặc dù diệt được nhà Tân nhưng phạm vi quản lý của Canh Thủy Đế chỉ bao gồm Quan Trung, Lạc Dương, Giang Hoài và Kinh châu, các nơi khác do các lực lượng nhân danh chống Vương Mãng nổi dậy chiếm giữ. Lúc đó vùng Hà Bắc vẫn do các tướng do Vương Mãng bổ nhiệm và các cánh quân khởi nghĩa chia nhau nắm giữ. Quân khởi nghĩa Xích Mi của Phàn Sùng bất mãn với Lưu Huyền cũng ly khai chống lại.

Lưu Huyền định cử tướng đi bình định Hà Bắc, Tư đồ Lưu Tứ là anh họ của Lưu Tú bèn tiến cử Lưu Tú. Ban đầu Lưu Huyền nghe theo Chu Vĩ, sợ thả Lưu Tú đi sẽ khó kiềm chế. Lưu Tú bèn nhờ cha con Tả thừa tướng Tào Cánh và Tào Hử tiến cử một lần nữa. Canh Thủy Đế bằng lòng phái Lưu Tú đi. Tháng 10 năm 23, ông nhận chức Đại Tư mã, cùng các tướng Phùng Dị, Diêu Kỳ, Chu Hựu,... rời Lạc Dương lên Hà Bắc.

Bình định Hà Bắc

Bị truy đuổi

Đến Hà Bắc, ông phải đối mặt với hàng loạt lực lượng chống đối. Ngoài các tướng cũ của Vương Mãng, các cánh quân khởi nghĩa không tuân phục triều đình Canh Thuỷ Đế rất nhiều, như quân Đồng Mã, Thanh Độc, Đại Dung, Cao Hồ Thiết Kính,... tất cả 15 cánh quân. Thêm vào đó là lượng địa chủ địa phương do một thầy bói là Vương Lang đứng đầu, tự xưng là con trai Hán Thành Đế, đổi tên là Lưu Tử Dư, chiếm giữ Hàm Đan để cát cứ[27].

Khi Lưu Tú đến Hàm Đan, mưu sĩ của Vương Lang (Lưu Tử Dư) là Lưu Hâm đến yết kiến định xin theo, xin hiến kế đánh quân Xích Mi của Phàn Sùng với ông. Hâm bày mưu mở cửa đê sông Hoàng Hà để dìm chết quân Phàn Sùng. Tuy nhiên Lưu Tú không tán thành ý đồ giết người tàn nhẫn như vậy nên không nghe theo. Lưu Hâm bèn trở về, cùng các đại địa chủ nước Triệu quyết ý giúp Vương Lang, lập Lang - với tên Lưu Tử Dư – làm hoàng đế.

Biết mình lực lượng mỏng không thể đối địch với Vương Lang, Lưu Tú dẫn quân đến Chân Định. Vương Lang treo giải cho ai giết được ông thì phong Vạn hộ hầu, vì thế tháng 1 năm 24 ông phải tiếp tục chạy lên phía bắc. Khi đến Lư Nô[28] thì được sự ủng hộ gia nhập của Cảnh Yểm, con trai thái thú Thượng Cốc là Cảnh Huống. Ông tiếp tục đi lên phía bắc đến huyện Kế[29], định tuần thú ở đây để thu phục lòng người, nhưng ở đâu cũng có hịch văn kêu gọi giết ông sẽ có thưởng. Ngoài ra, con của hoàng thân Lưu Gia – người tham gia quân Thung Lăng – là Lưu Tiếp cũng khởi binh hưởng ứng Lưu Tử Dư. Vì vậy Lưu Tú vội vã trở về phía nam, trên đường về ông không dám ghé vào các thành ấp, ăn ngủ đều ở bên đường.

Toàn quân đói khát, đến Nhiêu Dương, Lưu Tú phải trá xưng là sứ giả của hoàng đế Lưu Tử Dư vào quán kiếm cơm. Có người tỏ thái độ nghi ngờ nhưng vì Lưu Tú giữ thái độ bình tĩnh như thường nên cuối cùng toàn quân đi thoát.

Về phía nam đến Nam Cung[30], trời rét, quân Lưu Tú phải nghỉ trong nhà bỏ không bên đường. Tới sông Hồ Đà không có thuyền, nhưng đúng lúc đó mặt sông đóng băng nên toàn quân Lưu Tú vượt qua được sông, đến huyện Hạ Bác rồi tới Tín Đô, gặp được tướng trấn thủ là Nhiệm Quang do Lưu Huyền phái tới.

Diệt Vương Lang

Lưu Tú hợp binh với Nhiệm Quang, bàn cách liên lạc với các cánh quân khởi nghĩa nông dân Lực Tử Đô và Thành Đầu Tử Lộ - đã hàng Canh Thủy Đế - để chống Vương Lang. Ông sai Nhiệm Quang viết hịch đi khắp các quận huyện kêu gọi phản Vương Lang theo Canh Thủy Đế.

Sau đó ông để Quang Tông ở lại giữ Tín Đô, còn mình cùng Nhiệm Quang mang quân tới Cự Lộc, dùng kế nghi binh uy hiếp. Tướng giữ Cự Lộc hoảng sợ xin hàng. Lưu Tú nhập quân ở Cự Lộc vào rồi tiến đến dụ hàng tiếp được huyện Thế. Thái thú quận Hoà Thành là Phi Đồng cũng quy hàng ông, mang 2000 quân lại theo.

Có người khuyên ông nên mang toàn quân ở Tín Đô và Hoà Thành rút về Trường An để bảo toàn lực lượng, nhưng ông theo ý kiến của Phi Đồng, kiên quyết ở lại, không bỏ Hà Bắc. Sau đó ông mang quân tiến đến Xương Thành[31], anh em Lưu Thực mở cửa ra hàng.

Theo kế của Lưu Thực, Lưu Tú sai người đến cầu hôn cháu gái của hoàng thân Lưu Dương, người đang trấn giữ Chân Định, có 10 vạn quân và ảnh hưởng rất lớn đối với cục diện Hà Bắc. Nhờ sự thuyết phục của Lưu Thực, Lưu Dương đồng ý gả người cháu gái (con chị) là Quách Thánh Thông cho ông. Sử sách gọi việc này là "Lưu Tú lấy vợ mượn quân".

Nhờ binh lực của Lưu Dương, Lưu Tú mạnh lên rất nhiều. Ông đi đánh Trung Sơn, nhanh chóng hạ được thủ phủ Lư Nô. Nhiều quận huyện nghe vậy bắt đầu phản Vương Lang theo ông. Ông tiến về phía nam, đánh chiếm Tân Thị[32], Nguyên Thị[33], Phòng Tử[34] rồi đánh bại tướng của Vương Lang là Lý Dục ở Bách Nhân[35]. Lý Dục chạy vào thành cố thủ, Lưu Tú không hạ được nên quay sang phía đông đánh Quảng A[36].

Cùng lúc, thái thú Thượng Cốc là Cảnh Huống - cha Cảnh Yểm đã theo hàng Lưu Tú - hẹn hợp binh với thái thú Ngư Dương[37] là Bành Sủng, sai hai thủ hạ là Ngô Hán và Khấu Tuần, giao cho Cảnh Yểm chỉ huy, mang quân nam tiến đánh Vương Lang. Quân Cảnh Yểm rất mạnh mẽ, giết hơn 400 tướng, chém 3 vạn quân địch, chiếm 22 huyện thuộc Trác quận, Trung Sơn, Cự Lộc, Thanh Hà, Hà Gián và đến Quảng A hội binh với Lưu Tú. Lưu Tú được 3 tướng Cảnh Yểm, Ngô Hán và Khấu Tuần rất vui mừng.

Sau một thời gian Lưu Tú rời Lạc Dương, Canh Thủy Đế lại phái Tạ Cung cầm quân lên Hà Bắc để hợp sức với Lưu Tú trừ Vương Lang và bình định vùng này, đồng thời canh chừng cử động của Lưu Tú.

Sau khi vây đánh Cự Lộc vài tháng không hạ được, tháng 4 năm 24, ông bỏ Cự Lộc, mang toàn quân đến vây đánh Hàm Đan – nơi đóng đô của Vương Lang. Sau hơn 20 ngày vây hãm, cuối cùng đến đầu tháng 5, Lưu Tú hạ được thành. Vương Lang định bỏ trốn, bị bộ tướng của Lưu Tú là Vương Bá giết chết.

Trừ Tạ Cung, ly khai Canh Thuỷ

Thấy Lưu Tú phát triển lớn mạnh, Lưu Huyền hạ chiếu gọi ông về Trường An và bổ nhiệm các tướng đến U châu nhận chức. Lưu Tú lấy cớ chưa bình định xong Hà Bắc, không mang quân về. Sau đó ông theo kế của Cảnh Yểm, sai Yểm đi cùng Ngô Hán đến trưng tập binh mã ở U châu. Vi Thuận, Miêu Tằng và Thái Sung là những người do Lưu Huyền cử đến chống lệnh không theo, Ngô HánCảnh Yểm lấy cớ giết luôn. Sau đó hai tướng điều binh mã U châu về với Lưu Tú, tụ tập quân đội đi đánh các cánh quân khởi nghĩa chưa hàng phục.

Tháng 3 năm 24, Lưu Tú dùng kế cướp lương thảo, đánh bại cánh quân Đồng Mã là lực lượng khởi nghĩa mạnh nhất Hà Bắc, rồi chiêu hàng họ.

Trong lúc đánh dẹp các cánh quân khởi nghĩa, Lưu Tú vẫn phải lo đối phó với Tạ Cung là tướng của Lưu Huyền. Lưu Tú tìm cách tâng bốc lấy lòng Tạ Cung khiến Cung bớt cảnh giác.

Sau đó Cung mang quân về đóng ở Nghiệp Thành - thủ phủ Ký châu. Lưu Tú mang quân dẹp quân khởi nghĩa Thanh Độc, muốn lừa Cung dời Nghiệp Thành bèn viết thư cho Cung, nhờ đi truy kích quân khởi nghĩa Vưu Lai ở Sơn Dương[38]. Tạ Cung nghe theo, mang quân xuống Sơn Dương, để Lưu Khánh và Trần Khang ở lại giữ thành. Lưu Tú sau khi thắng quân Thanh Độc bí mật phái Ngô Hán và Sầm Bành mang quân đánh úp Nghiệp Thành. Trong lúc chưa đánh, Lưu Tú lại sai thuyết khách dụ được Trần Khang làm phản Tạ Cung, giết chết Lưu Khánh dâng thành cho Ngô Hán.

Tạ Cung thắng trận trở về, không biết Trần Khang đã làm phản, khinh suất dẫn hơn 100 quân vào thành, bị phục binh của Ngô Hán giết chết.

Đầu năm 25, sau khi bình định các lực lượng khởi nghĩa như Vưu Lại, Đại Thương, Ngũ Phiên,... Lưu Tú cơ bản làm chủ toàn bộ Hà Bắc. Một số cánh quân còn sót lại chạy tản mát về cố thủ ở một số địa phương.

Đánh Lưu Huyền

Xưng đế

Ngày Kỉ Mùi (22) tháng 6 năm Ất Dậu (5 tháng 8 năm 25), theo lời khuyên của các thủ hạ, Lưu Tú xưng làm hoàng đếHạo Nam. Ông đặt lập đàn ở nơi hoang sơ, bố cáo việc lên ngôi, đặt quốc hiệu là Hán để kế tục nhà Hán, niên hiệu là Kiến Vũ. Các tướng lĩnh dưới quyền đều được phong chức: Đặng Vũ làm Đại Tư đồ, Vương Lương làm Đại tư không, Ngô Hán làm Đại tư mã,…Lúc này ông 32 tuổi.

Đánh hạ Lạc Dương

Thấy Lưu Tú ra mặt ly khai, Canh Thủy Đế sai Chu Vĩ và Lý Dật mang 30 vạn quân ra đóng ở Lạc Dương. Lưu Tú mang quân đánh lấy quận Hà Nội, làm chủ Hà Bắc, chuẩn bị tiến đánh Quan Trung. Lưu Tú sai Khấu Tuần giữ Hà Nội là nơi giàu có, không bị chiến tranh tàn phá để làm chỗ cung ứng quân lương, sai Phùng Dị giữ Mạnh Tân, kiềm chế quân Chu Vĩ ở Lạc Dương.

Tháng 7 năm 25, ông cùng các tướng đến huyện Hoài, sai Ngô Hán dẫn đầu 10 tướng mang hơn 10 vạn quân ra bao vây Lạc Dương. Để chia rẽ địch, ông sai Phùng Dị viết thư cho Lý Dật khuyên hàng. Lý Dật dao động, nhưng vì từng khuyên Lưu Huyền giết Lưu Diễn nên chưa dám về hàng. Tuy nhiên, Dật cũng thông đồng để Phùng Dị đánh chiếm Thượng Đảng, Thành Cao mà không ngăn cản.

Lưu Tú lại cố ý sai người tiết lộ cho Chu Vĩ biết việc Lý Dật thông đồng. Chu Vĩ được tin bèn triệu Dật đến giết chết. Các bộ tướng của Dật bỏ Vĩ về theo Lưu Tú. Chu Vĩ giữ thành Lạc Dương bị vây lâu ngày, nhờ có 30 vạn quân và lương thực đầy đủ nên kiên cường kháng cự. Lưu Tú thúc quân đánh thành nhiều trận nhưng vẫn không hạ được Lạc Dương.

Cùng lúc, quân khởi nghĩa Xích Mi của Phàn Sùng cũng phản lại Lưu Huyền, lập Lưu Bồn Tử mới 15 tuổi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Thế, tức là vua Hán Kiến Thế Đế, với danh nghĩa tái lập nhà Hán. Như vậy cùng lúc có ba vua Hán là Lưu Huyền, Lưu Bồn Tử và Lưu Tú.

Trong khi Lưu Huyền giao hết quân chủ lực cho Chu Vĩ thì quân Xích Mi đông 30 vạn người tiến về tây, đánh chiếm được Trường An. Lưu Huyền đường cùng cũng đành phải xin hàng. Tháng 12 năm 25, Lưu Huyền bị quân Xích Mi treo cổ.

Tháng 9 năm 25, nghe tin nội bộ Lưu Huyền lục đục và thất thế trước quân Xích Mi, Chu Vĩ bèn mở cửa thành đầu hàng Sầm Bành. Lưu Tú cho Vĩ hàng, không tính chuyện trả thù vì việc Lưu Diễn trước kia.

Thu được hàng binh của Chu Vĩ, Lưu Tú nắm được lực lượng quân đội mạnh lên rất nhiều. Tháng 10 năm 25, ông dời đô về Lạc Dương.

Chinh phục quân Xích Mi

Đầu năm 26, do bị thiếu lương, quân Xích Mi phải dời Trường An dời đến An Định[39] và Bắc Địa[40] tìm lương. Lưu Tú sai Đặng Vũ mang quân đánh chiếm thành bỏ trống.

Trên đường lên phía tây bắc, quân Xích Mi lại gặp bão tuyết lớn, quân sĩ bị chết cóng rất nhiều. Sau đó, quân Phàn Sùng lại bị quân cát cứ của Quỳ Ngao tập kích, đành phải quay trở lại Trường An. Thấy quân Xích Mi quay lại, Đặng Vũ mang quân đánh chặn ở Úc Di[41]. Quân Xích Mi giao chiến đánh bại quân Đặng Vũ, Vũ phải bỏ chạy về Vân Dương. Tháng 9 năm 26, quân Xích Mi lại vào được Trường An.

Sau đó, Đặng Vũ tiếp tục mang quân tập kích Trường An một trận nữa nhưng vẫn bị Phàn Sùng đánh bại. Trong lúc chủ quan, quân Xích Mi bị bộ tướng cũ của Lưu Huyền là Lý Bảo mang quân đánh lén, bị thua nặng, chết 10 vạn người[42]. Lúc đó khu giáp ranh Trường An lại xảy ra đói lớn, quân Xích Mi lại bị thiếu lương. Vì vậy đến tháng 12 năm 26 lại rút khỏi Trường An về phía đông.

Lưu Tú thấy Đặng Vũ liên tiếp thua trận bèn sai Phùng Dị đi đánh quân Xích Mi. Tháng 2 năm 27, Phùng Dị và Đặng Vũ truy kích quân Xích Mi, hai bên gặp nhau ở Hồi Khê[43] nhưng quân Phùng Dị vẫn bị Phàn Sùng đánh bại.

Thắng trận, Phàn Sùng tiếp tục tiến về đông, nhưng Lưu Tú đã bố trí thêm Hầu Tiến đóng đồn ở Tân An[44] và Cảnh Yểm đóng ở Nghi Dương[45]. Quân Xích Mi bất ngờ bị hai cánh quân chặn đánh ở địa phận hiểm yếu tại Hào Để[46], trở tay không kịp. Trong khi đó cánh quân của Phùng Dị và Đặng Vũ cũng dồn đuổi tới từ phía sau. Phàn Sùng đại bại, dẫn quân chạy sang hướng nam, về Nghi Dương.

Lưu Tú dẫn quân đến Nghi Dương, bố trí quân mai phục. Quân Xích Mi mỏi mệt sau nhiều trận giao chiến và di chuyển đường xa, lương thực lại hết, cùng đường không thể chống cự. Phàn Sùng đành mang 10 vạn quân ra hàng Lưu Tú.

Ông tha tất cả những người đầu hàng không giết ai, lựa lời khen ngợi Phàn Sùng và Từ Tuyên cùng các tướng Xích Mi bản lĩnh, lại không quên vợ con ở quê nhà. Sau đó ông cấp nhà cửa và đất đai Phàn Sùng và các tướng lĩnh khác mang vợ con đến định cư ở kinh thành Lạc Dương.

Diệt quần hùng, thống nhất quốc gia

Các chư hầu còn lại

Sau khi quân Xích Mi bị chinh phục, vẫn còn 11 lực lượng cát cứ chống đối trong nước:

  1. Lưu Vĩnh là tôn thất nhà Hán, cháu 8 đời dòng trưởng của Lương Hiếu vương – con Hán Văn Đế, chiếm cứ 20 thành ở Sơn Đông, Giang Tô, Hà Nam, An Huy; tự xưng là thiên tử nối ngôi nhà Hán
  2. Trương Bộ ở Lang Nha, giữ 12 quận ở miền trung Sơn Đông, liên minh với Lưu Vĩnh, xưng là Tề Vương
  3. Đổng Hiến chiếm Thanh Đàm ở đông nam Sơn Đông, cũng liên minh với Lưu Vĩnh, tự xưng là Hải Tây vương
  4. Lư Phương chiếm giữ Ngũ Nguyên, Sóc Phương, Vân Trung, Nhạn Môn thuộc Nội Mông và bắc Thiểm Tây, Sơn Tây, Cam Túc ở phía tây bắc, liên kết với Hung Nô, tự xưng là Thiên tử.
  5. Lý Hiến chiếm Lư Giang phía đông nam, tự xưng Hoài Nam vương
  6. Tần Phong chiếm Kinh châu ở phía nam, tự xưng là Sở Lê Vương
  7. Bành Sủng là tướng của Lưu Tú làm phản năm 26, tự xưng là Yên vương, chiếm bắc Hà Bắc và Liêu Ninh
  8. Công Tôn Thuật chiếm cứ đất Thục lập nước Thành gia, xưng là Bạch đế.
  9. Quỳ Ngao chiếm Lũng Tây, đông nam Cam Túc, xưng vương
  10. Điền Nhung chiếm Di Lăng
  11. Đậu Dung chiếm 5 quận ở Hà Tây

Trong các lực lượng kể trên, Lưu Vĩnh là lực lượng mạnh nhất và nguy hiểm nhất với Lưu Tú vì Vĩnh có địa bàn liền kề, có thực lực và lại là con cháu trực hệ nhà Hán hơn ông. Vì vậy, Lưu Tú chủ trương diệt Lưu Vĩnh và các lực lượng vây cánh trước, còn các lực lượng khác ở xa và ít khả năng uy hiếp ông hơn nên sẽ thôn tính sau và tiêu diệt toàn bộ các chư hầu có mối hoạ sau này.

Gần trước xa sau

Do có lực lượng khá hùng hậu, nhiều tướng giỏi, Lưu Tú một mặt tập trung vào những mũi tấn công chính, mặt khác tuỳ vào diễn biến tình hình từng vùng, ông sai các tướng cùng lúc tác chiến trên nhiều mặt trận.

Từ năm 26, nhân lúc quân Xích MiTrường An gặp đói kém và bị các lực lượng khác cầm chân, quấy rối, Lưu Tú tập trung quân chủ lực đi đánh Lưu Vĩnh. Do kinh đô Tuy Dương của Lưu Vĩnh chỉ cách Lạc Dương của Lưu Tú vài trăm dặm, ông chủ trương xuất quân đánh nhanh để thắng. Quả nhiên Lưu Vĩnh không chống nổi, bỏ kinh đô Tuy Dương chạy về giữ Hồ Lăng[47]. Thấy địch suy yếu, Lưu Tú rút về Lạc Dương lo đối phó với quân Xích Mi, sai Ngô Hán đi đánh Hồ Lăng. Trong thành nguy cấp, thủ hạ giết chết Lưu Vĩnh để hàng. Con Lưu Vĩnh là Lưu Hu chạy về với Hải Tây vương Đổng Hiến.

Lưu Vĩnh bị giết làm nguy cơ phía đông bớt đi. Lưu Tú tính đến phản tướng Bành Sủng ở Yên. Sủng chiếm giữ ba quận Quảng Dương, Thượng Cốc, Hữu Bắc Bình, đánh đuổi tướng của Lưu Tú là Chu Phù khỏi huyện Kế (Bắc Kinh) và câu kết với Hung Nô. Năm 28, ông sai Tế Tuân đi đánh Yên. Trong khi chiến sự giằng co, liệu thế khó đánh thắng được Sủng, Lưu Tú dùng kế ám sát. Ông mua chuộc các thủ hạ hầu hạ cho Sủng là Tử Mật. Đầu năm 29, Sủng đang làm lễ cúng bái ăn chay, thiu thiu ngủ, Tử Mật trói luôn Sủng lại. Sau đó, Tử Mật lại giả truyền lệnh gọi vợ Sủng vào và chém chết cả hai người, mang đầu dâng cho tướng Tế Tuân. Với chiến sự phía đông, Lưu Tú nhiều lần sai các tướng Ngô Hán, Cái Diên, Mã Vũ, Vương Bá tấn công Lưu Hu và Đổng Hiến. Năm 29, Lưu Tú đích thân cầm quân, đánh bại Hiến ở Xương Lự[48]. Tháng 8 năm 29, ông bắt giết được Lưu Hu. Cùng lúc, Lưu Tú sai mãnh tướng Cảnh Yểm đánh Tề vương Trương Bộ. Cuối năm 29, Trương Bộ không chống cự nổi, phải đầu hàng. Năm 30, Ngô Hán vây Đổng Hiến ở huyện Cù[49]. Trong thành hết lương, Hiến ngầm chạy về Hồ Trạch, bị bộ tướng của Ngô Hán đuổi theo giết chết. Toàn bộ phía đông, gồm Sơn Đông, Hà Nam và Giang Tô thuộc về Lưu Tú.

Năm 28, sau khi diệt được quân Xích Mi và dồn các lực lượng của Lưu Hu và Đổng Hiến vào thế phòng thủ, Lưu Tú điều quân đánh Thọ Xuân[50], sai Mã Thành vây đánh Lý Hiến ở Thư Thành. Lý Hiến cầm cự đến đầu năm 30 thì thành vỡ. Hiến bỏ chạy, bị thủ hạ giết chết. Vùng Lư Giang hàng Lưu Tú. Tháng 11 năm ấy, khi chiến sự miền đông đã khá thuận lợi, Lưu Tú đích thân đi đánh Uyển Thành ở phía nam. Ông sai Chu Hựu đánh Tần Phong, vây khốn Phong ở Lê Khâu[51]. Tháng 6 năm 29, Chu Hựu phá được thành, bắt được Tần Phong.

Trong khi Chu Hựu đánh Phong, tháng 3 năm 29, Lưu Tú cùng Sầm Bành đi đánh Điền Nhung ở Di Lăng. Nhung thua trận, bỏ chạy vào Thục. Lưu Tú bắt hết vợ con và hơn vạn quân của Nhung. Cùng năm, Lưu Tú sai người đi dụ Đậu Dung ở Hà Tây. Đậu Dung liệu thế không chống được nên quy hàng Lưu Tú. Nhờ vậy Lưu Tú đã bớt được 1 lực lượng có thể liên minh với Quỳ Ngao ở phía tây. Cũng trong năm 29, khi quần hùng phía đông cơ bản bị dẹp, các lực lượng khởi nghĩa nông dân ở Hà Bắc còn sót lại trước đây như Đàn Hương, Hoạch Sách, Phúc Bình, Vưu Lai,... cũng bị dẹp hoàn toàn. Tới năm 30, chỉ còn 3 thế lực chống đối là Lư Phương, Quỳ Ngao và Công Tôn Thuật. Do địa bàn Lư Phương khá xa, Lưu Tú tính tới Quỳ NgaoCông Tôn Thuật trước. Quỳ Ngao đóng ở Thiên Thuỷ, có 10 vạn quân, từng tham gia đánh Vương Mãng và giao tranh với quân Xích Mi. Năm 30, Lưu Tú điều quân tấn công Quỳ Ngao. Chiến tranh kéo dài trong nhiều năm. Sau này Quỳ Ngao chết, con là Quỳ Thuần lên thay. Năm 34, Lưu Tú đánh bại Thuần ở Lạc Môn. Quỳ Thuần thế cùng phải đầu hàng.

Đầu năm 35, Lưu Tú chia quân làm hai đường đi đánh Công Tôn Thuật. Sầm Bành, Ngô Hán đi ngược Trường Giang vào Thục; Lai Hấp, Tang Cung đi từ Lũng Tây xuống, hội nhau ở Thành Đô. Thuật thấy quân địch kéo đến bèn dùng kế thích khách, sai người lẻn đến trại hai cánh quân Hán để đâm trộm chủ tướng. Kết quả Sầm Bành và Lai Hấp bị đâm trọng thương rồi chết, nhưng hai cánh quân do Ngô Hán, Tang Cung chỉ huy vẫn tiến vào Thục.

Năm 36, quân Hán tiến vào Thành Đô. Công Tôn Thuật bị thương rồi chết. Lực lượng của Lưu Phương phía bắc ngày một suy yếu trước sự uy hiếp của Lưu Tú. Các thủ hạ của Phương lần lượt về hàng Hán. Đến năm 40, Phương bị cô thế, phải dâng biểu xin hàng. Lưu Tú bèn phong cho Phương tước Đại vương. Tuy nhiên sau đó Phương lại câu kết với Hung Nô nổi loạn nhưng không thành công và phải chạy sang phía Hung Nô vào năm 42.

Sau gần 20 năm khởi binh, Lưu Tú thống nhất toàn thiên hạ với danh nghĩa kế tục nhà Hán. Ông lập ra triều đại nhà Đông Hán kéo dài gần 200 năm.

Đánh Giao Chỉ

Bài chi tiết: Hai Bà Trưng

Từ năm 29, Lưu Tú trong quá trình đánh dẹp chư hầu đã phong Sầm Bành là Chinh nam đại tướng quân. Theo lời dụ của Sầm Bành, các tướng trấn giữ Giao Chỉ là Tích Quang và Đặng Nhượng đã theo hàng nhà Đông Hán cùng các tướng Hầu Đặng ở Giang Hạ, Vương Đường ở Vũ Lăng,…

Năm 40, ngay sau khi Lưu Tú thống nhất quốc gia thì ở phía nam, thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định tàn bạo, mất lòng dân địa phương. Định giết hại thủ lĩnh người Việt ở Chu Diên là Thi Sách.

Vợ của Thi Sách là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị kêu gọi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, đánh đuổi Tô Định, tự lập ở Giao Chỉ, xưng là Trưng Vương.

Năm 42, Lưu Tú sai Phục Ba tướng quân Mã Viện mang 2 vạn quân đi đánh Trưng Vương. Sang năm 43, sau nhiều trận thắng, Mã Viện dẹp được phong trào khởi nghĩa tại đây. Sau khi chị em Trưng Vương tự sát, tới cuối năm 43 thì các lực lượng chống đối bị dẹp hẳn.Tuy nhiên quân Hán khi về nước chỉ còn khoảng 1 vạn so với 2 vạn lúc xuất phát.